Mẫu nghi thiên hạ Hiếu Trang Hoàng Thái hậu

Con trai được lập

Trang phi Bác Nhĩ Tề Cát Đặc thị trong triều phục dành cho phi tần những năm Sùng Đức.

Năm Sùng Đức thứ 8 (1643), ngày 9 tháng 8 (tức ngày 21 tháng 9 dương lịch), Hoàng Thái Cực mất tại Thịnh Kinh.

Vào thời điểm Hoàng Thái Cực qua đời, ông chưa lập ai làm Trữ quân, cũng không để lại chiếu thư, điều này đã gây nên sự xung đột tranh chấp ngôi vị trong nội bộ hoàng tộc. Lúc bây giờ, hai thế lực mạnh nhất là Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn, người em thứ 14 cùng cha khác mẹ của Hoàng Thái Cực, là tướng soái đứng đầu Bát Kỳ, và người kia là Túc Thân vương Hào Cách, con trai cả của Hoàng Thái Cực.

Trong tình cảnh lúc đó, Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn người có quyền lực nhất trong tám vị Nghị chính Đại thần, đã ý thức được rằng cán cân quyền lực chính trị và quân sự giữa hai bên bằng nhau, bất cứ bên nào lên làm Hoàng đế đều làm mất thế cân bằng, gây ra sự xung đột và chiến tranh ngay trong nội bộ triều nhà Thanh. Cuối cùng, ông quyết định ủng hộ con trai thứ chín của Hoàng Thái Cực là Hoàng tử Phúc Lâm kế vị. Về lý do Đa Nhĩ Cổn ủng hộ Phúc Lâm, phần lớn nhiều người nhận định còn mơ hồ, cũng bởi vì Phúc Lâm khi ấy chỉ tầm 6 tuổi, rất nhiều Hoàng tử khác lớn hơn Phúc Lâm, còn nếu Đa Nhĩ Cổn sợ chọn người lớn tuổi sẽ khó bề kiểm soát, thì dưới Phúc Lâm cũng còn có Bác Mục Bác Quả Nhĩ nhỏ hơn rất nhiều, con trai do Ý Tĩnh Đại Quý phi sinh ra. Về quyết định khó hiểu này của Đa Nhĩ Cổn, rất nhiều nhận định cho rằng chủ yếu là do mối quan hệ tình cảm giữa Đa Nhĩ Cổn và Trang phi Bố Mộc Bố Thái. Đó cũng là một trong những lý do khiến người đời tin rằng giữa hai người có tình cảm.

Cùng năm, ngày 26 tháng 8 (tức ngày 8 tháng 10 dương lịch), Hoàng cửu tử Phúc Lâm lên ngôi ở Thịnh Kinh, sử gọi Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. Vào lúc này, Thuận Trị Đế chỉ mới 6 tuổi, tám vị Nghị chính Đại thần bầu ra hai vị là Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn cùng Trịnh Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng làm hai vị phụ chính. Sau đó, Đa Nhĩ Cổn được phong ["Nhiếp Chính vương"], quyền hành cao nhất.

Trong nội cung, Hoàng hậu Triết Triết của Thanh Thái Tông trở thành Hoàng thái hậu, là Hoàng thái hậu chính thức duy nhất khi ấy, còn sinh mẫu Trang phi Bố Mộc Bố Thái được tôn gọi Thánh mẫu (聖母). Về điều này, Thanh thực lục triều Thuận Trị (soạn dưới thời Khang Hi) có nói rõ, Trang phi cho đến khi được chính thức dâng tôn hiệu vào năm Thuận Trị Đế thân chính (tức năm Thuận Trị thứ 8) thì chỉ kính gọi ["Thánh mẫu"], còn ["Hoàng thái hậu"] tức chỉ đến Hoàng hậu Triết Triết. Xét điều này có bất đồng với ghi chép của Hoàng triều Văn hiến thông khảo (皇朝文獻通考) cùng Thanh sử cảo, cả hai đều ghi Trang phi được tôn Hoàng thái hậu cùng lúc, nhưng có lẽ niên đại quá xa, cũng có ít nhiều khó khảo chứng mà ghi tượng trưng, vì Thông khảo soạn vào đời Càn Long, và Thanh sử cảo soạn tận thời Dân Quốc.

Tấn tôn Hoàng thái hậu

Năm Thuận Trị nguyên niên (1644), Lý Tự Thành tiến công Bắc Kinh, Sùng Trinh Nhà Minh tự vẫn tại núi Vạn Thọ, nhà Minh diệt vong. Cha của Ngô Tam Quế bị Lý Tự Thành giết rồi treo trên cổng thành, Ngô Tam Quế uất hận gửi thư cầu viện Nhà Thanh, mở cửa Sơn Hải Quan cho thiết kỵ quân Bát Kỳ tiến vào trung nguyên. Đầu hạ năm đó, sau khi đã đánh tan quân Lý Tự Thành, Đa Nhĩ Cổn đã tiến thẳng vào thành Bắc Kinh. Từ đây nhà Thanh đã thống nhất toàn bộ Trung Nguyên.

Năm Thuận Trị thứ 8 (1651), tháng 1, sau khi Hiếu Đoan Văn hoàng hậu băng thệ, Thuận Trị Đế cũng bắt đầu thân chính, triều thần đề nghị tôn Thánh mẫu Trang phi làm Hoàng thái hậu[1]. Ngày 10 tháng 2, bà được dâng tôn hiệu là Chiêu Thánh Từ Thọ Hoàng thái hậu (昭聖慈壽皇太后), bắt đầu thiết nghi trượng[2]. Chiếu cáo thiên hạ[3].

Sách tôn rằng:

Chiêu Thánh Hoàng thái hậu mặc Thường phục

国承家道莫先于立爱正名定位。礼莫大于尊亲。子有至情。古垂彝宪。宜登崇号。以表化原。恭惟圣母体备含弘。性成圣善。克恭俭而襄大业。秉慈惠而谐六宫。祜既笃于家邦。祥乃钟于继嗣。恩勤顾复、丕殚鞠子之劳。启迪训行备示作君之则。坤教彰于率土。母仪式于九围。至德难名。莫罄揄扬之实。深恩罔报。图申尊养之诚。爰顺舆情。肇隆盛典。谨告天地、太庙、社稷。率诸王贝勒文武群臣恭奉册宝。上尊号曰昭圣慈寿皇太后。伏愿凝和履泰燕子诒孙德位兼崇锡鸿禧于四海。天人协庆。介眉寿于万年宝文曰昭圣慈寿皇太后宝。

...

Quốc thừa gia đạo mạc tiên vu lập ái chính danh định vị. Lễ mạc đại vu tôn thân. Tử hữu chí tình. Cổ thùy di hiến. Nghi đăng sùng hào. Dĩ biểu hóa nguyên.

Cung duy Thánh mẫu, thể bị hàm hoằng. Tính thành thánh thiện. Khắc cung kiệm nhi tương đại nghiệp. Bỉnh từ huệ nhi hài lục cung. Hỗ kí đốc vu gia bang. Tường nãi chung vu kế tự. Ân cần cố phục, phi đàn cúc tử chi lao. Khải địch huấn hành bị kỳ tác quân chi tắc. Khôn giáo chương vu suất thổ. Mẫu nghi thức vu cửu vi. Chí đức nan danh. Mạc khánh du dương chi thật. Thâm ân võng báo. Đồ thân tôn dưỡng chi thành. Viên thuận dư tình. Triệu long thịnh điển.

Cẩn cáo Thiên địa, Thái Miếu, Xã tắc, suất chư Vương, Bối lặc, văn võ quần thần cung phụng sách bảo. Thượng tôn hào viết Chiêu Thánh Từ Thọ Hoàng thái hậu.

Phục nguyện ngưng hòa lí thái yến tử di tôn đức vị kiêm sùng tích hồng hi vu tứ hải. Thiên nhân hiệp khánh. Giới mi thọ vu vạn niên bảo văn viết: Chiêu Thánh Từ Thọ Hoàng thái hậu bảo.

— Sách tôn Chiêu Thánh Từ Thọ hoàng thái hậu[4]

Cùng năm ấy, tháng 8, dâng thêm tôn hiệu 2 chữ, toàn xưng Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản Hoàng thái hậu (昭聖慈壽恭簡皇太后).

Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), ngày 23 tháng 7, Thuận Trị Đế dẫn lời Hoàng thái hậu rằng: 「"Ta thân cư ngụ ở thâm cung, chưa từng biết chuyện bên ngoài. Nay nghe nói mưa lớn gây ngập lụt, nhà cửa sụp đổ, điền hòa bao phủ, binh dân khốn khổ, thật là xót xa. Nay ta lấy 8 vạn 200 lượng bạc tiết kiệm được từ trong cung phân ra, cứu tế dân chúng Mãn-Hán"; 予居深宫之中,不闻外事。近知雨潦为灾,房舍倾颓,田禾淹没,兵民困苦,深可悯恻,特发宫中节省银八万两,赈济满汉兵民。」. Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), ngày 25 tháng 2, Hoàng thái hậu nghe nói các địa phương phát sinh thiên tai, hạ chỉ trong cung thu dụng đồ vật tiết kiệm được 40.000 lượng bạc quyên góp dân chúng. Cùng năm ấy, Thuận Trị Đế truy tặng cha bà là Trại Tang làm [Hòa Thạc Trung Thân vương; 和硕忠亲王], còn mẹ bà là [Trung Thân vương Hiền phi; 忠亲王贤妃].

Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), ngày 21 tháng 6 (âm lịch), nhân dịp sách lập Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, Thuận Trị Đế dâng thêm tôn hiệu cho bà hai chữ [An Ý; 安懿], toàn xưng là Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Hoàng thái hậu (昭聖慈壽恭簡安懿皇太后)[5].

Năm Thuận Trị thứ 13 (1656), ngày 12 tháng 8 (âm lịch), Hoàng thái hậu lại nghe nói nạn dân khắp vùng quanh kinh kỳ gặp thiên tại, thu gom được 30.000 lượng bạc để cứu tế[6]. Ngày 24 tháng 12 (âm lịch), nhân dịp Thuận Trị Đế sách phong Đổng Ngạc phi làm Hoàng quý phi, lại dâng thêm 2 chữ trong tôn hiệu, toàn xưng là Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Hoàng thái hậu (昭聖慈壽恭簡安懿章慶皇太后)[7][8].

Thái hoàng thái hậu uy quang

Năm Thuận Trị thứ 18 (1661), ngày 7 tháng 1 (tức ngày 5 tháng 2 dương lịch), Thuận Trị Đế băng hà vì bệnh đậu mùa, khi chỉ mới 24 tuổi.

Trước đó, khi Thuận Trị Đế lâm bệnh nặng nằm liệt giường, Chiêu Thánh Hoàng thái hậu rất ủng hộ Hoàng tam tử Huyền Diệp trong số các hoàng tử, có thể trở thành người thừa kế. Thế là trước khi lâm chung, Thuận Trị Đế đưa mật chỉ, lập Huyền Diệp làm Thái tử. Ngay sau khi Thuận Trị Đế băng, Hoàng thái tử Huyền Diệp kế vị, tức Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. Vì Hoàng đế lên ngôi năm ấy chỉ mới 8 tuổi, do đó bốn vị Nghị chính Đại thần phụ giúp Tân đế còn non trẻ được chỉ định, gồm: Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất LongNgao Bái. Trong thời gian này, Khang Hi Hoàng đế gọi bà là [Thánh tổ mẫu Hoàng thái hậu; 聖祖母皇太后], vẫn chưa chính thức định danh hiệu Thái hoàng thái hậu.

Ngày 3 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, Khang Hi Đế chọn định huy hiệu cho Thánh tổ mẫu, cùng Mẫu hậu Hoàng hậu (tức Hiếu Huệ Chương hoàng hậu) và Mẫu hậu (tức Hiếu Khang Chương hoàng hậu). Huy hiệu của Thái hoàng thái hậu được định rằng Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Đôn Huệ Thái hoàng thái hậu (昭聖慈寿恭简安懿章庆敦惠太皇太后)[9].

Sách tôn viết:

昌源茂衍、荷慈训之贻谋。景历初膺、奉彝章而晋号。欢腾宫籞。庆洽寰区。钦惟圣祖母昭圣慈寿恭简安懿章庆皇太后、至仁厚德、配地承天。辅皇祖以式廓丕基、懋著肃雝之化。启皇考而载恢大业、益隆圣善之规。顾眇躬之嗣缵洪猷、赖懿教之恩隆诲迪。敬循显扬之典、用抒孝养之忱。谨告天地、宗庙、社稷。率诸王、贝勒、文武群臣、恭奉册宝、加上徽号曰、昭圣慈寿恭简安懿章庆敦惠太皇太后。伏愿休徵滋至。纯嘏弥增。绵鹤算于无疆。耀鸿名于有永。宝文曰、昭圣慈寿恭简安懿章庆敦惠太皇太后之宝。

...

Xương nguyên mậu diễn, hà từ huấn chi di mưu. Cảnh lịch sơ ưng, phụng di chương nhi tấn hào. Hoan đằng cung 籞. Khánh hiệp hoàn khu.

Khâm duy Thánh tổ mẫu Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Hoàng thái hậu, chí nhân hậu đức, phối địa thừa thiên. Phụ hoàng tổ dĩ thức khuếch phi cơ, mậu trứ túc ung chi hóa. Khải hoàng khảo nhi tái khôi đại nghiệp, ích long thánh thiện chi quy. Cố miễu cung chi tự toản hồng du, lại ý giáo chi ân long hối địch. Kính tuần hiển dương chi điển, dụng trừ hiếu dưỡng chi thầm.

Cẩn cáo Thiên địa, Tông miếu, Xã tắc, suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ quần thần, cung phụng sách bảo, gia thượng huy hào, viết: Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Đôn Huệ Thái hoàng thái hậu.

Phục nguyện hưu trưng tư chí. Thuần hỗ di tăng. Miên hạc toán vu vô cương. Diệu hồng danh vu hữu vĩnh. Bảo văn viết Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Đôn Huệ Thái hoàng thái hậu chi bảo.

— Sách tôn Thánh tổ mẫu Hoàng thái hậu[10]

Năm Khang Hi thứ 4 (1666), nhân đại hôn, lại tôn thêm hai chữ Ôn Trang (温莊)[11]. Năm thứ 6 (1668), tôn thêm hai chữ Khang Hòa (康和)[12][13]. Năm thứ 15 (1677), nhân dịp chọn lập Đích tử Dận Nhưng làm Thái tử,tôn thêm hai chữ Nhân Tuyên (仁宣)[14][15][16]. Năm thứ 20 (1681), nhân dịp bình định Ngô Tam Quế, lại dâng thêm hai chữ Hoằng Tĩnh (弘靖)[17][18]. Bấy giờ, Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu là vị Thái hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Thanh có tôn hiệu rất dài, lên đến 24 chữ, toàn xưng Chiêu Thánh Từ Thọ Cung Giản An Ý Chương Khánh Đôn Huệ Ôn Trang Khang Hòa Nhân Tuyên Hoằng Tĩnh Thái hoàng thái hậu (昭聖慈壽恭簡安懿章慶敦惠溫莊康和仁宣弘靖太皇太后).

Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu sinh hoạt đơn giản, không thích xa hoa. Khi bình định loạn Tam phiên, Thái hoàng thái hậu đem ngân lượng trong cung đình tiết kiệm được quyên ra khao thưởng binh lính xuất chinh. Mỗi phùng năm mất mùa, bà luôn là đem tiền tiết kiệm trong cung ra cứu tế, toàn lực phối hợp cũng như tận tâm duy trì sự nghiệp của con cháu và tổ tông. Gương tốt phi thường của bà, khiến các Hoàng đế về sau cảm phục mà noi theo. Năm Khang Hi thứ 6, Thái hoàng thái hậu từng chủ trì viết một quyển kinh Phật theo kiểu [Thổ bá đặc; 土伯特] bằng cách nhũ vàng, gọi là [Cam Châu nhĩ kinh; 甘珠尔经]. Khi ấy, Ngao Bái cùng Át Tất Long quyền khuynh triều dã, cực lực phản đối, Thái hoàng thái hậu kiên trì dẹp các luồn ý kiến, nhiều lần hạ ý chỉ[19], nên rất nhiều Công chúa và Cách cách gả đi ngoại phiên ủng hộ công trình này của bà.

Năm Khang Hi thứ 21 (1682), mùa xuân, Hoàng đế đi tuần Thịnh Kinh, ven đường cơ hồ mỗi ngày phái người viết thư thăm hỏi cuộc sống hàng ngày của Thái hoàng thái hậu, đồng thời báo cáo hành tung của chính mình, hơn nữa đem những món tươi ngon mà tự tay ông bắt được, đều phái đem về cung đặc dụ chế biến, trình lên Hoàng tổ mẫu thưởng thức. Năm thứ 22 (1683), mùa thu, Khang Hi Đế bồi Hoàng tổ mẫu tuần du ngoạn Ngũ Đài Sơn, Hoàng đế mỗi khi hạ kiệu, bản thân vì Hoàng tổ mẫu mà tự tay đỡ bà lên.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hiếu Trang Hoàng Thái hậu http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslkxcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslkxcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslkxcs... http://www.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslszc... http://www.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslszc... https://archive.org/details/lastemperorssoc00raws https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=198047&rem... https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=246517 https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=349655&rem... https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=653199